Các nhà xuất khẩu trên toàn thế giới vẫn đang tìm hiểu chính xác việc Tổng thống Mỹ Donald Trump áp dụng hàng loạt mức thuế quan sẽ ảnh hưởng thế nào đến họ và doanh nghiệp của mình.
Vậy những mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của New Zealand sang Mỹ là gì và chúng có thể bị ảnh hưởng ra sao?
Năm ngoái, giá trị hàng hóa xuất khẩu sang Mỹ đạt gần 9 tỷ đô la New Zealand.
Con số này chiếm 12,7% tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu, đứng thứ hai trong các thị trường xuất khẩu. Trong những năm gần đây, Mỹ đã trở thành một điểm đến xuất khẩu quan trọng hơn nhiều đối với New Zealand.
Trong 12 tháng kết thúc vào tháng 12 năm 2024, đây là các mặt hàng xuất khẩu nhiều nhất sang Mỹ:
Thịt và "phần nội tạng ăn được" – 2,5 tỷ NZD
Giám đốc điều hành Westpac, ông Kelly Eckhold, cho biết thịt bò là một mặt hàng nhập khẩu khó thay thế đối với Mỹ.
Cả New Zealand và Úc đều xuất khẩu một lượng lớn thịt bò nạc sang Mỹ – loại thịt này sau đó được pha trộn với thịt bò mỡ hơn để làm hamburger và thịt xay.
"Họ làm như vậy vì nó giúp món ăn ngon hơn, nên thực tế là người Mỹ không dễ gì từ bỏ thịt bò của chúng ta, vì họ cơ bản là không có loại thịt tương tự," ông nói.
Ông Gareth Kiernan, chuyên gia dự báo chính tại Infometrics, cho biết trong số 2,5 tỷ NZD xuất khẩu thịt thì 1,8 tỷ là từ thịt bò, và 42% tổng lượng thịt bò xuất khẩu của New Zealand là sang Mỹ.
Tuy nhiên, ông cũng đồng ý rằng người tiêu dùng Mỹ khó có thể chuyển sang sử dụng thịt bò nội địa.
"Số lượng bò thịt tại Mỹ đang ở mức thấp nhất trong 70 năm qua. Vì vậy, tác động đến lợi nhuận của nông dân chăn nuôi bò có thể sẽ không quá lớn."
"Đó cũng là một phần lý do giúp xuất khẩu của chúng ta sang Mỹ tăng trưởng trong những năm qua. Họ vẫn sẽ tiếp tục ăn... bạn biết đấy, họ thích hamburger mà."
Chuyên gia kinh tế trưởng của ASB, ông Nick Tuffley, cho biết mức độ ảnh hưởng của một mức thuế quan sẽ phụ thuộc vào các yếu tố như: đặc điểm của mặt hàng được xuất khẩu, các lựa chọn thay thế mà Mỹ có, và liệu hàng xuất khẩu đó là sản phẩm cuối cùng hay chỉ là một phần của một sản phẩm lớn hơn.
Ông nói rằng nếu thịt bò được bán qua các chuỗi thức ăn nhanh, thì thuế quan chỉ ảnh hưởng đến một phần nhỏ của lượng thịt trong mỗi chiếc burger.
“Tác động đến giá cuối cùng mà người tiêu dùng phải trả sẽ không quá lớn. Đây là một ví dụ cho thấy thịt bò có thể vẫn tương đối bền vững trước thuế, ít nhất là ở phần dùng làm hamburger, vì đó chỉ là một phần nhỏ trong toàn bộ món ăn mà người ta tiêu thụ.”
Sữa – 982,9 triệu NZD
Với ngành sữa, tác động lớn hơn có thể đến từ thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc – nơi đang phải đối mặt với các mức thuế rất cao.
Ông Eckhold cho biết Mỹ và Trung Quốc có hoạt động thương mại sữa và thịt bò đáng kể.
"Hoạt động này có khả năng bị gián đoạn nghiêm trọng nếu các mức thuế cao vẫn được duy trì."
Nếu Trung Quốc không còn muốn nhập hàng từ Mỹ, họ sẽ phải tìm nguồn cung từ nơi khác – điều này có thể mang lại lợi ích cho New Zealand.
Đồ uống – 742,7 triệu NZD
Phần lớn xuất khẩu đồ uống sang Mỹ là rượu vang.
"Với rượu vang, nguy cơ áp thuế xuất hiện vào thời điểm khó khăn, khi ngành này vốn đã gặp khó với nhu cầu toàn cầu giảm và giá cả giảm xuống trong vài năm qua," ông Kiernan cho biết.
"Giá rượu vang ngoại tăng cao tại Mỹ có thể khiến người tiêu dùng dễ dàng chuyển từ uống một chai syrah vùng Hawke’s Bay sang zinfandel của California, từ đó làm giảm nhu cầu với sản phẩm của chúng ta."
Ông cũng cho biết, nhu cầu rượu vang đã sụt giảm trong vài năm gần đây.
"Tất cả chúng ta đều uống ít hơn so với thời kỳ đại dịch khi bị kẹt ở nhà."
"Đó là xu hướng toàn cầu, nhưng người tiêu dùng Mỹ chuyển sang rượu nội địa dễ dàng hơn nhiều, do cung – cầu hiện tại và thị trường rộng lớn."
Ông Tuffley cho biết giá trị của rượu vang nằm hoàn toàn tại New Zealand (chế biến tại chỗ).
"Trong kịch bản đó, việc áp thuế có thể tác động mạnh hơn vì nhà bán lẻ khó có thể gánh chi phí nếu bị tăng giá."
"Nếu ở phần thấp hơn trong chuỗi giá trị, nơi có nhiều cạnh tranh và người tiêu dùng rất nhạy cảm về giá, thì việc tăng giá có thể khiến doanh số giảm mạnh, hoặc nhà nhập khẩu sẽ phản đối: 'chúng tôi không bán nổi trừ khi các anh giảm giá để bù phần thuế'. Khi đó, doanh nghiệp bị ảnh hưởng về sản lượng hoặc biên lợi nhuận."
Máy móc cơ khí – 683,7 triệu NZD
Ông Tuffley cho biết mức độ ảnh hưởng của xuất khẩu máy móc cơ khí phụ thuộc vào tầm quan trọng của công dụng và liệu Mỹ có lựa chọn thay thế trong nước hay không.
Tinh bột albumin và keo – 448 triệu NZD
Máy móc điện – 439 triệu NZD
Thiết bị quang học, y tế và đo lường – 390 triệu NZD
Phần lớn hàng xuất khẩu của Fisher & Paykel Healthcare có thể nằm trong nhóm này.
Tuy nhiên, ông Eckhold cho biết ông đã tham gia các cuộc họp gần đây nơi các doanh nghiệp xuất khẩu thiết bị y tế sang Mỹ tỏ ra lo ngại về tác động của thuế quan. Mặc dù khối lượng xuất khẩu không lớn, nhưng điều này cho thấy nhiều loại hàng hóa khác nhau đều sẽ bị ảnh hưởng.
Gỗ – 370,7 triệu NZD
Cá – 334,1 triệu NZD
Trái cây và các loại hạt – 307,1 triệu NZD
Ông Tuffley cho biết yếu tố thời vụ là động lực chính khiến Mỹ nhập khẩu nhiều trái cây và các loại hạt. Chủ yếu là kiwi và táo được xuất khẩu sang Mỹ vào những thời điểm trái vụ của họ.
Ông Kiernan nói rằng Mỹ có thể bị gạt khỏi thị trường khi giá trái cây trái mùa tăng cao.
Ông Eckhold cho biết hiện vẫn chưa rõ cách thức toàn bộ hệ thống thuế quan sẽ hoạt động như thế nào trên quy mô tổng thể.
Ông cho biết Mỹ đang vận hành theo một hệ thống hạn ngạch (quota), áp dụng cho từng quốc gia và từng loại sản phẩm khác nhau. Các nhà xuất khẩu mà ông đã trao đổi vẫn chưa rõ các hạn ngạch này sẽ hoạt động ra sao khi kết hợp với các mức thuế quan.
Ngoài ra, hiện vẫn chưa rõ bao nhiêu phần trăm của mức thuế quan sẽ được chuyển sang cho người tiêu dùng Mỹ gánh chịu, và bao nhiêu phần sẽ do nhà xuất khẩu chịu lỗ.
“Các doanh nghiệp vẫn đang chờ xem tình hình sẽ diễn biến như thế nào,” ông nói.
“Không ai muốn là người đầu tiên tăng giá.”
Ông Tuffley nói rằng đối thủ cạnh tranh chính của các nhà xuất khẩu New Zealand chính là các nhà cung cấp nội địa của Mỹ. Các nước khác cũng đang phải chịu cùng mức thuế, hoặc thậm chí cao hơn.
Trong một số trường hợp, các công ty New Zealand có thể sẽ cân nhắc chuyển một phần sản xuất sang Mỹ, nếu chi phí để làm vậy thấp hơn chi phí chịu thuế quan.
Tuy nhiên, ông cũng nói rằng câu hỏi then chốt sẽ là các mức thuế này sẽ tồn tại trong bao lâu.
“Có những nghi vấn về việc liệu các mức thuế này có kéo dài quá giai đoạn ‘đàm phán’ của ông Trump hay không, hoặc liệu chúng có tiếp tục duy trì sau khi ông rời nhiệm sở.”
“Điều đó rất quan trọng, vì sẽ không đáng để đầu tư một khoản tiền lớn nhằm tìm giải pháp thay thế, chỉ để thấy các quy tắc thay đổi sau này. Thật khó để xác định giải pháp dài hạn tối ưu là gì khi hiện tại chưa rõ mức thuế cụ thể sẽ như thế nào và kéo dài bao lâu.”
Theo rnz.co.nz – Duong Nguyen